Lực lượng và kế hoạch của hai bên Chiến_tranh_Đại_Việt_-_Lan_Xang_(1478-1480)

Sử Lào kể rằng triều đình Đại Việt đã phái 55 vạn quân dưới sự chỉ huy của 4.000 tướng lĩnh sang đánh Lan Xang. Chao Chienglaw chỉ huy quân Lan Xang kháng cự. Ông có 20 vạn quân và 2 ngàn thớt voi, 6 vị dũng tướng gồm Norasing, Noranarai, Noradet, Norara, Muen Luang và Phya Kwatepa.[2]

Còn sử liệu Việt Nam, Đại Việt sử ký toàn thư sau khi chép lại lời chiếu đánh Bồn Man của vua Lê Thánh Tông trong đó có đoạn: "Đặc sai Thái uý Sùng quận công Lê Thọ Vực, Đoan Vũ hầu Trịnh Công Lộ, Diên Hà bá Lê Hy Cát đeo ấn tướng quân, trao cho 20 vạn quân tinh nhuệ, hẹn đến tháng 8 năm nay, chia đường tiến quân, kể tội đến đánh. Tập hợp binh sĩ như hổ như beo; gióng trống hành quân thẳng sào huyệt giặc. Để dân cõi xa được chăn chiếu ấm êm, khiến đảng hung ác phải kình nghê phanh xác. Lừng lẫy danh thiêng chói lọi, theo trời nêu uy thế chẻ tre, liên tiếp tin vui rạng rỡ, hẹn ngày tâu thắng trận trở về. Báo cáo trong ngoài thảy đều được biết."[4] Trong chiếu đánh Ai Lao ghi: "Đã định ngày 28 tháng 7 này, đặc mệnh tướng thần, chia đường tiến đánh. Chinh Tây tướng quân Lê Thọ Vực là tiên phong, đi đường chính chỉ huy các quân các doanh du kích, trước hãy giết tên cháu hiếu của giặc Bồn Man để chặt vây cánh nó, rồi chiếm ngay đất hiểm yếu là xứ Trấn Ninh mà đánh vào lòng giặc. Chinh Di tướng quân Trịnh Công Lộ chỉ huy các doanh quân thổ binh từ đường An Tây tiến vào để chiếm giữ mạn thượng lưu. Trấn Lỗ tướng quân Lê Đình Ngạn chỉ huy các doanh quân hoành dã từ đường Ngọc Ma đánh tới để cắt ngăn đường giặc chạy. Du kỵ phó tướng quân là bọn Lê Lộng đi đường châu Thuận Mỗi để bóp cổ chẹn lưng. Thảo tặc phó tướng quân là bọn Lê Nhân Hiếu theo lối phủ Thanh Đô để đánh chỗ sơ hở... Nay trẫm tự cầm cờ mao trắng điều khiển, tự cầm lưỡi búa vàng chỉ huy."[4] Như vậy, quân Đại Việt gồm 5 đạo quân (khi chính thức xuất quân ngày 23 tháng 8 âm năm Mậu Tuất (1478) là 18 vạn) tiến vào từ 5 ngả:

  • Trịnh Công Lộ, Lê Vĩnh (cánh quân chính phía Bắc) theo đường phủ An Tây (Mường Lay tỉnh Lai Châu) đánh thẳng vào Lão Qua (Kinh đô Luang Prabang).
  • Nguyễn Lộng (Lê Lộng), Đinh Thế Nghiêu theo đường Thuận Mỗi (Thuận Châu tỉnh Sơn La), nhưng vẫn trong tầm điều hành của cánh quân Trịnh Công Lộ và yểm trợ cho cánh quân này đánh Lan Xang (Lão Qua).
  • Lê Nhân Hiếu (cánh quân Bắc trung tâm) theo đường phủ Thanh Đô (sau gọi là phủ Thọ Xuân nay là hướng các huyện Thường Xuân, Lang Chánh, Quan Sơn tỉnh Thanh Hóa), qua đường Hủa Phăn (đất Lão Qua) đánh Lão Qua và vu hồi vào Bồn Man.
  • Lê Thọ Vực (cánh quân trung tâm) theo đường chính phủ Trà Lân (Kỳ Sơn, Tương Dương tỉnh Nghệ An) đánh trực tiếp vào Bồn Man (Xiêng Khoảng), rồi xuyên qua Bồn Man sang Lão Qua.
  • Lê Đình Ngạn (cánh quân Nam trung tâm) theo đường phủ Ngọc Ma (mặt Tây Nam tỉnh Nghệ An, khoảng Con Cuông, Thanh Chương tỉnh Nghệ An, Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh) ngược lên theo hướng Tây Bắc đánh Bồn Man rồi Lão Qua.

Đầu năm Kỷ Hợi (1479) vua Lê Thánh Tông sai Lê Niệm mang 30 vạn quân tăng viện đánh Bồn Man.

Cuốn History of Laos (including the history of Lannathai, Chiengmai) của M. L. Manlch, phần viết về vua Tilokarat (1441-1485) của Lan Na cung cấp một thông tin rằng vua Tilokarat đã đẩy lui quân Việt Nam tấn công vào vùng đất phía Đông của nước ông, nơi mà nay là tỉnh Nan của Thái Lan. Có thể sự kiện này liên quan đến cuộc chiến tranh giữa Đại Việt và Lan Xang. Nhưng không rõ việc quân đội Đại Việt tấn công Nan là do truy đuổi quân Lan Xang chạy tới đó hay là chủ ý tấn công Lan Na.[12] Cuốn A Short History of Laos của Grant Evans cho biết khi nhà Lê tấn công Lan Xang, một chúa xứ Nan đã giúp Lan Xang chống lại.[13] Đại Việt sử ký toàn thư không thấy nhắc đến việc quân đội của Lê Thánh Tông tấn công nước nào khác ngoài Bồn Man và Lão Qua (tức Lan Xang) trong cuộc chiến tranh này.

Minh thực lục, cuốn sử của Trung Quốc ghi tổng số quân Đại Việt tham chiến là 23 vạn, trong đó có 8 vạn phu mở đường và chở lương.[14]